Ngô Quyền là vị vua đầu tiên của nhà Ngô trong lịch sử Việt Nam. Năm 938, ông là người lãnh đạo nhân dân đánh bại quân Nam Hán trong trận Bạch Đằng nổi tiếng, chính thức kết thúc hơn 1000 năm Bắc thuộc, mở ra một thời kì độc lập lâu dài của dân tộc Việt Nam.Ngô Quyền được tôn vinh trong danh sách 14 anh hùng dân tộc tiêu biểu của Việt Nam, là vị “vua đứng đầu các vua”, là “vị Tổ Trung hưng” của Việt Nam.
Làng cổ Đường Lâm (ảnh Ngô Vương Anh).
Ngô Quyền sinh vào ngày 12/3 năm Đinh Tỵ ( tức 17/4/ 897) tại làng Mông Phụ, xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, Hà Nội. Cha ông là Ngô Mân, làm Châu mục Đường Lâm thuộc dòng hào trưởng có thế lực. Ngay từ nhỏ, ông đã tỏ ra là người có trí dũng song toàn, được cha dạy bắn cung nỏ, sử dụng giáo gươm, nghệ thuật binh pháp. Ngô Quyền lớn lên trong lúc đất nước mới dành được quyền tự chủ. Ông nối chí cha, tập hợp được lực lượng và trở thành một hào trưởng hùng mạnh trong vùng. Ông được Dương Đình Nghệ tin yêu, mời về làm nha tướng và gả con gái cho. Sau lại được Dương Đinh Nghệ giao cho trấn giữ châu Ái, vùng đất phên dậu của quê hương họ Dương.
Năm 937, Dương Đình Nghệ bị tên thuộc tướng Kiều Công Tiễn giết hại nhằm đoạt ngôi Tiết độ sứ, gây nên sự căm phẫn trong các vị hào trưởng và nhân dân. Nghe tin, Ngô Quyền tập hợp lực lượng để tiêu diệt Kiều Công Tiễn. Hoảng sợ, Kiều Công Tiễn vội vã sai người sang cầu cứu nhà Nam Hán. Vua Lưu Cung sai con là Thái tử Hoằng Tháo thống lĩnh một đoàn binh thuyền vượt biển sang xâm lược nước ta.
Đất nước lâm nguy, Ngô Quyền một mặt tiêu diệt Kiều Công Tiễn trừ mối họa bên trong, mặt khác huy động nhân dân cả nước bước vào cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm. Tại vùng cửa sông Bạch Đằng, Ngô Quyền huy động hàng ngàn binh sĩ và nhân dân địa phương xây dựng trận địa cọc gỗ để đón đánh quân xâm lược. Một ngày cuối đông năm 938, đoàn binh thuyền của Hoằng Tháo đến vùng cửa biển Bạch Đằng, thời điểm nước triều đang lên cao. Ngô Quyền cho thuyền nhẹ ra khiêu chiến, nhử địch đuổi theo vượt qua bãi cọc, lọt vào trận địa mai phục của ta. Khi đoàn thuyền của Hoằng Tháo vượt qua vùng cửa biển, nước triều rút mạnh, quân ta quay lại phản công quyết liệt. Trận địa cọc nhô lên chặn đứng đoàn thuyền giặc, nhiều chiếc bị cọc gỗ đầu bịt sắt đâm thủng, va vào nhau rồi chìm xuống dòng sông. Chủ tướng Hoằng Tháo bị chết tại trận. Toàn bộ đạo quân xâm lược của nhà Nam Hán bị tiêu diệt ngay tại nơi địa đầu sông nước của Tổ quốc. Vua Nam Hán đồn trú ở cửa biển để cứu trợ nhưng không làm gì được, thương khóc con, thu nhặt quân lính còn sót rút về.
Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 được ghi vào lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta như một chiến công chói lọi, chấm dứt ách thống trị hơn một nghìn năm của các đế chế phong kiến phương Bắc, mở ra kỷ nguyên độc lập thực sự và lâu dài của dân tộc Việt Nam.
Mùa xuân, ngày 10 tháng Giêng năm Kỷ Hợi tức ngày 21/01/939, Ngô Quyền xưng vương, xây dựng một chính quyền độc lập, tự chủ, bỏ chức Tiết độ sứ, tự xưng Vương hiệu, định quốc ở Cổ Loa – kinh đô của nhà nước Âu Lạc thời An Dương Vương làm kinh đô cho triều đại của mình để biểu lộ ý chí kế thừa truyền thống từ thời An Dương Vương.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng: Mùa xuân, vua bắt đầu xưng vương, lập Dương thị làm hoàng hậu, đặt trăm quan, chế định triều nghi phẩm phục.
Sách Việt sử tiêu án chép: Vương giết Công Tiễn, phá Hoằng Tháo, tự lập làm vua, tôn Dương thị làm Hoàng hậu, đặt đủ 100 quan, dựng ra nghi lễ triều đình, định các sắc áo mặc, đóng đô ở Cổ Loa thành, làm vua được 6 năm rồi mất.
Ngày 16 tháng Giêng năm Canh Thìn (944), Ngô Quyền qua đời sau 6 năm trị vì đất nước.
Để tưởng nhớ công lao to lớn của đức Vua, nhiều nơi trên cả nước đã lập đền thờ như ở Đường Lâm – Sơn Tây – Hà Nội, Hải Phòng, Hưng Yên, Thái Bình, Hà Nam, Phú Thọ…
Kết quả khảo cổ học trong những năm qua tại Cổ Loa đã làm sáng tỏ lịch sử trong 6 năm trị vì của Ngô Vương , một số ít đoạn thành cũ của An Dương Vương cũng được tu sửa, đắp lại.
Trong dân gian còn tương truyền lại những câu chuyện gắn với các di tích, di vật, đang hiện hữu trong Khu di tích như: giếng nước Ngô Quyền, câu chuyện về cây đa nghìn tuổi được Ngô Quyền trồng trước cửa am thờ Mỵ Châu, truyền thuyết về cuộc hôn nhân giữa Ngô Quyền và bà phi họ Đỗ người làng Dộc (Dục Tú ngày nay) đã tạc vào bia đá di tích Đền Thượng, hay việc phân chia đất Cổ Loa và Dục Tú thời Ngô Quyền mà dân gian có câu thơ: Chợ Sa của Cổ Loa, cây đa của Dục Tú…
Khu di tích Cổ Loa
Năm 2019, tròn 1080 năm Ngô Quyền Xưng Vương, định đô ở Cổ Loa (939 – 2019) là sự kiện lịch sử có ý nghĩa trọng đại của dân tộc. UNBD Thành phố Hà Nội có Kế hoạch số 94/KH-UBND ngày 10/4/2019 về việc Tổ chức các hoạt động kỷ niệm 1080 năm Ngô Quyền xưng vương, định đô ở Cổ Loa (939 – 2019).
Việc tổ chức các hoạt động kỷ niệm tại Khu di tích quốc gia đặc biệt Cổ Loa sẽ góp phần tiếp nối truyền thống yêu nước, thể hiện lòng biết ơn sâu sắc các thế hệ đã hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc; khẳng định vị trí, tầm vóc vĩ đại, giá trị lịch sử to lớn của đức vua Ngô Quyền trong lịch sử đấu tranh dựng nước, giữ nước của dân tộc Việt Nam; tôn vinh tinh thần yêu nước và ý chí độc lập tự chủ, tự cường, khát vọng hòa bình dân tộc ta, đồng thời tuyên truyền, giáo dục ý nghĩa sâu sắc sự kiện lịch sử có sức lan tỏa rộng lớn trong nhân dân Thành phố và cả nước./.
BAN QUẢN LÝ KHU DI TÍCH CỔ LOA