Thời Hùng Vương, nước Văn Lang của các bộ tộc Lạc Việt, gồm 15 bộ, có trung tâm ở khu vực miền núi phía Bắc nước ta. Vào đầu thế kỷ III trước Công nguyên, một đế chế rộng lớn và hùng mạnh mới được thống nhất ở phía Bắc: nhà Tần – đế chế ở phương Bắc, đã tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược với quy mô lớn, số quân đông tới 50 vạn, do Đồ Thư thống lĩnh tiến xuống phía Nam để “bình Bách Việt”. Nước Văn Lang nhỏ bé lâm nguy.
Lúc bấy giờ, Thục Phán vốn là một thủ lĩnh của người Tây Âu trên địa bàn phía Bắc Văn Lang, đã cùng liên kết với nhiều tù trưởng của Tây Âu và Lạc Việt tổ chức cuộc kháng chiến chống quân Tần. Trong cuộc kháng chiến ấy, Thục Phán nổi lên là một thủ lĩnh tài giỏi, có uy tín lớn đối với cả Tây Âu và Lạc Việt.
Hình 1: Tượng vua An Dương Vương bằng đồng (TK19) được thờ tại đền Thượng
Năm 208 TCN, sau cuộc kháng chiến chống quân Tần thắng lợi, Thục Phán sáp nhập hai bộ tộc Lạc Việt và Âu Việt, thành lập nước Âu Lạc xưng Vương (tức vua An Dương Vương mà chúng ta hay gọi sau này), tiếp nối sự nghiệp của vua Hùng – một sự kiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tiến trình thống nhất các dân tộc, thể hiện bước phát triển mới của quốc gia cổ đại của các tộc người Việt, là sự kế tục ở bước cao hơn Văn Lang và cũng là một yêu cầu tất yếu của lịch sử.
Trong thời kỳ trị vì nhà nước Âu Lạc, với một tầm nhìn chiến lược, ý chí, quyết tâm dựng nước và giữ nước mạnh mẽ, An Dương Vương đã quyết định dời vị trí trung tâm của đất nước từ vùng núi phía bắc xuống vùng đồng bằng, rộng lớn và thuận lợi hơn, lập Kinh đô, xây dựng đất nước chống giặc ngoại xâm. Đó là vùng đất Cổ Loa ngày nay.
Đặc biệt, bằng nỗ lực phi thường, An Dương Vương và quân dân Âu Lạc, chỉ trong một thời gian ngắn đã xây dựng xong một tòa thành đồ sộ và độc đáo. Vua An Dương Vương – người tổng chỉ huy đã tận dụng triệt để những yếu tố tự nhiên về địa hình địa vật để tạo ra một tòa thành cao hào sâu, có đủ các yếu tố thuận lợi cho phòng thủ và tấn công: thủy bộ liên hoàn, trong ngoài kết hợp, ta thì tiến thoái đều nhanh, địch thì khó bề xâm phạm. Đó là tòa thành từng được gọi bằng cái tên là thành Ốc, Tư long thành, Loa thành hay thành Cổ Loa. Thành Cổ Loa, với vai trò là Kinh đô của Âu Lạc, mang 3 chức năng: Kinh thành, Quân thành, Thị thành và được các nhà khảo cổ đánh giá là “tòa thành cổ nhất, quy mô lớn vào bậc nhất, cấu trúc cũng thuộc loại độc đáo nhất trong lịch sử xây dựng thành lũy của người Việt cổ”.
Nhờ có sự đoàn kết quân dân, lại có thứ vũ khí bắn tên đồng huyền thoại-“Nỏ thần” cùng tòa thành độc đáo, An Dương Vương đã nhiều lần đánh bại quân Triệu Đà xâm lược và để lại cho lịch sử đời sau những giá trị to lớn và sâu sắc về công cuộc dựng nước, giữ nước của dân tộc.
Hình 2: Đền Thượng – nơi thờ vua An Dương Vương
Hàng năm, tưởng nhớ công lao của Đức vua An Dương Vương, cứ đến ngày Húy nhật của vua, 7 tháng 3 âm lịch (Theo “Ngọc phả Cổ Lục”), Trung tâm Bảo tồn di sản Thăng Long – Hà Nội, Ban Quản lý khu di tích Cổ Loa thành kính tổ chức Lễ dâng hương tưởng niệm ngày húy Đức vua An Dương Vương tại đền Thượng khu di tích Cổ Loa – xã Cổ Loa – huyện Đông Anh – Thành phố Hà Nội để tri ân tiền nhân, giáo dục truyền thống đạo lý uống nước nhớ nguồn, phát huy giá trị lịch sử trong công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước.