Lễ hội Cổ Loa hay còn gọi là lễ hội “Bát xã hộ nhi”, lễ hội Bát xã Loa thành thuộc loại hình lễ hội truyền thống. Lễ hội Cổ Loa được ghi danh là văn hóa phi vật thể quốc gia tại Quyết định số 603/QĐ-BVHTTDL ngày 03/2/2021 của Bộ Văn hóa, Thể thao và du lịch. Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia gồm những di sản văn hóa phi vật thể mang tính tiêu biểu cho quốc gia.
Không gian thực hành lễ hội Cổ Loa
Lễ hội Cổ Loa có không gian thực hành lễ hội trung tâm là khu vực thành Nội thuộc xã Cổ Loa, có quần thể các di tích kiến trúc đền, đình, am, điếm, nơi thờ phụng chính đức vua An Dương Vương, Mỵ Châu, thần Kim Quy, tướng quân Cao Lỗ và các nhân vật liên quan. Mà trong đó, không gian ‘hạt nhân” của lễ hội là khu vực đền Thượng (thờ vua An Dương Vương) tại xã Cổ Loa.
Bản đồ không gian thực hành văn hóa phi vật thể lễ hội Cổ Loa tại Cổ Loa
Chủ thể văn hóa lễ hội Cổ Loa
Chủ thể văn hóa lễ hội Cổ Loa là cộng đồng cư dân 8 xã cùng thờ An Dương Vương, ngày nay là 8 làng (thuộc 3 xã: Cổ Loa, Uy Nỗ, Xuân Canh) gồm: Cổ Loa, Văn Thượng, Mạch Tràng, Sằn Giã, Ngoại Sát, Đài Bi, Cầu Cả, Thư Cưu. Trong đó cộng đồng làng Cổ Loa (gồm 12 xóm: Nhồi Trên, Nhồi Dưới, Lan Trì, Gà, Dõng, Vang, Hương, Thượng, Bãi, Chợ, Chùa, Mít) giữ vai trò chính trong điều hành các nghi thức nghi lễ, diễn trình lễ hội.
Bản đồ phân bố di sản văn hóa phi vật thể lễ hội Cổ Loa tại Bát xã Loa thành
Quá trình ra đời và tồn tại lễ hội Cổ Loa
Đền Cổ Loa (còn gọi là đền Thượng hay đền thờ An Dương Vương), thờ đức vua An Dương Vương và những người có công với dân, với nước. An Dương Vương - người kế tiếp thời đại Hùng Vương, có công lập nước Âu Lạc, chuyển kinh đô từ Phong Châu (vùng Bạch Hạc Việt Trì, Phú Thọ) về Cổ Loa, xây thành, đắp lũy chống giặc, bảo vệ chủ quyền dân tộc, từ 208 - 179 TCN. Tương truyền ngày Mùng 6 tháng Giêng là ngày Thục Phán nhập cung, ngày Mùng 9 tháng Giêng đăng quang và cho khao toàn bộ binh sĩ. Để ghi nhớ công đức của đức vua, dân làng Cổ Loa và các làng khác trong vùng thờ đức vua An Dương Vương lấy ngày Mùng 6 tháng Giêng làm ngày tổ chức lễ hội. Với người dân Cổ Loa là ngày thiêng liêng, không thể không tham gia lễ hội: “Chết bỏ con bỏ cháu, sống không bỏ Mùng 6 tháng Giêng”.
Thời gian tổ chức lễ hội Cổ Loa
Trước đây, lễ hội Cổ Loa được tổ chức thường xuyên từ 3 năm đến 5 năm một lần trong 12 ngày, từ Mùng 6 đến 18 tháng Giêng. Nếu là năm “phong đăng hòa cốc” Cổ Loa mở hội rất lớn. Sau năm 1952, lễ hội không còn sự tham gia của “Bát xã hộ nhi” mà do làng Cổ Loa duy trì tổ chức hội làng với quy mô nhỏ, lễ nghi đơn giản, có tế lễ và một số trò chơi dân gian. Đến năm 1990, lễ hội Cổ Loa dần được khôi phục lại và tổ chức hàng năm với sự tham gia của cộng đồng cư dân Bát xã Loa Thành. Hiện nay, lễ hội được tổ chức trong 2 ngày (Mùng 5 - 6), ngày Mùng 6 là chính hội, với quy mô lớn, có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý nhà nước của Thành phố, Trung tâm Bảo tồn Di sản Thăng Long – Hà Nội, Ban quản lý Khu di tích Cổ Loa, chính quyền các cấp huyện - xã - thôn, cộng đồng cư dân ở các làng, xóm có thực hành lễ hội và trở thành một lễ hội quan trọng, lớn của cả nước.
Sau ngày Mùng 6 tháng Giêng, 7 làng còn lại trong “Bát xã hộ nhi” tổ chức lễ hội tại làng mình cho đến ngày 18 tháng Giêng mới dã đám, kết thúc lễ hội Cổ Loa (ngày Mùng 8 lễ hội làng Văn Thượng, Mùng 9 lễ hội làng Ngoại Sát, Đài Bi, Mùng 10 lễ hội làng Mạch Tràng, ngày 11 lễ hội làng Cầu Cả, ngày 13 lễ hội Sằn Giã, ngày 16 lễ hội làng Thư Cưu).
Công việc chuẩn bị cho lễ hội
Bầu (tiến cử) Quan đám (Thủ từ) thực hiện tuyển chọn 2 ông Quan đám trông coi “sạch cỏ - đỏ hương” đền Thượng, am Mỵ Châu.
Quan đám làm lễ tại đền Thượng
Họp Hội đồng Bát xã: Cũng được tiến hành vào đầu tháng Chạp, sau khi bầu xong Quan đám, để phân công nhiệm vụ cụ thể và lo tài chính tổ chức lễ hội Cổ Loa, trên cơ sở hương ước của làng, xã quy định hết sức chặt chẽ như luyện tập tế lễ, rước kiệu, chuẩn bị đồ tế, thực hiện nghi lễ: bao sái, lễ rước mã...
Họp tiểu ban tế, lễ
Ngày chính hội Mùng 6 tháng Giêng
Phần lễ
Theo truyền thuyết, khi vua An Dương Vương chọn Cổ Loa làm địa điểm xây dựng kinh đô, người dân làng Quậy đã nhường đất cho vua xây thành. Do vậy, dù làng Quậy mặc dù không có tên trong Bát xã nhưng vì là dân gốc Cổ Loa nên được mời đến dự lễ hội và được làm lễ đọc Mật khẩn ở chiếu trên, các làng khác phải ra đón. 15 cụ thuộc đoàn anh Cả Quậy đến Cầu Cung, lúc này 15 cụ làng Cổ Loa mặc áo tế gồm có 01 trống khẩu, 01 kiểng, 01 lộng vàng che lễ, 01 phù choang dựng lễ, 02 quân chầu khiêng lễ đến đón và rước lễ đoàn anh cả Quậy vào đền Thượng làm lễ và được xếp ngồi ở chiếu trên.
Từ sáng sớm các xã rước kiệu của xã mình về làng Cổ Loa theo hai phía. Phía tây (bên phải đền Thượng) tập trung tại thành Ngoại gồm các làng: Mạch Tràng, Sằn Giã, Đài Bi, Cầu Cả. Phía đông (bên phải trái đền Thượng) tập trung tại chợ Sa, gồm làng Văn Thượng - Ngoại Sát - Thư Cưu. Đến 7h sáng, theo trống lệnh, 2 đoàn rước cùng tiến vào đền Thượng đến đầu hồ phía tây thì hai đoàn nhập vào làm một xếp theo thứ tự Văn Thượng - Mạch Tràng - Sằn Giã - Ngoại Sát - Đài Bi - Cầu Cả - Thư Cưu. Đoàn rước tiến vào sân Rồng Thượng theo số thứ tự hạ kiệu như sau: Bên Đông: Văn Thượng, Sằn Giã, Đài Bi, Thư Cưu; Bên Tây: Cổ Loa, Mạch Tràng, Ngoại Sát, Cầu Cả. Sau tiếng trống lệnh, anh Cả Quậy vào tiến lễ trước, đến Bát xã lần lượt dâng lễ vào cung vua.
Kiệu các làng rước vào đền Thượng
Hai cụ Thủ hiệu trống đại, chiêng đại cử (thực hiện) 3 hồi 9 tiếng khai mạc lễ hội. Anh Cả Quậy đọc lời chúc mừng, làm lễ và đọc lời mật khẩn, thực hiện tại chiếu trên trước cửa đền.
Anh cả Quậy đọc mật khẩn
Tiếp theo là buổi tế Hội đồng ở Cổ Loa diễn ra hơn hai tiếng qua 67 lần xướng. Đây là nghi thức quan trọng nhất trong phần lễ của lễ hội Cổ Loa do các cụ ông thực hiện nhằm mục đích đón rước và thỉnh mời thần về dự hưởng lễ vật, đồng thời là dịp để dân làng chúc tụng thần, bày tỏ lòng biết ơn của dân làng đối với thần linh, mong thần phù hộ cho dân làng bình yên, hạnh phúc, quốc thái dân an.
Tế Hội đồng
Sau buổi tế Hội đồng là nghi thức rước kiệu Bát xã (nghênh rước kiệu). Xuất phát từ đền Thượng, kiệu làng Cổ Loa dẫn đầu, sau đó lần lượt đến rước kiệu của các làng Văn Thượng, Mạch Tràng, Sằn Giã, Ngoại Sát, Đài Bi, Cầu Cả, Thư Cưu. Đoàn rước từ sân Rồng Thượng xuống sân Rồng Hạ, ra cửa đền, rẽ sang phải đi về phía tây, vòng xuống phía nam, quanh hồ giếng Ngọc (Ngọc Tỉnh) sang bên phía đông đến ngã tư thì đoàn rước của làng Cổ Loa rước thẳng vào đình Ngự Triều Di Quy ngự ở đó. Buổi chiều Cổ Loa tế tại đình, tế xong rước kiệu về đền. Các làng còn lại trong Bát xã (Mạch Tràng, Sằn Giã, Đài Bi, Cầu Cả, Thư Cưu) rẽ trái đi về đường phía tây nam qua cổng đền, riêng làng Văn Thượng, Ngoại Sát rẽ về chợ Sa đi về đình của mỗi làng, tiếp tục tổ chức hội làng thời gian bắt đầu từ Mùng 8 đến 16 tháng Giêng.
Rước kiệu Bát xã
Phần hội
Lễ hội Cổ Loa có hệ thống trò chơi dân gian và trò diễn phong phú, hấp dẫn chứa đựng nét đẹp văn hóa và mang giá trị truyền thống dân tộc, tiêu biểu như: bắn nỏ, đu tiên, đấu vật, cờ người, hát tuồng, múa rối nước....thu hút được đông đảo mọi tầng lớp nhân dân tham gia.
Trò chơi cờ người
Trò chơi đấu vật
Trò chơi bắn nỏ
Trò chơi đu tiên
Lễ hội Cổ Loa hàm chứa giá trị tri thức dân gian. Các nghi thức tế lễ, rước, các tục hèm, các trò chơi, trò diễn, ẩm thực là kho tàng khoa học về giá trị tư duy của người dân từ xa xưa cho đến bây giờ. Lễ hội cũng là dịp để giáo dục lòng biết ơn của con cháu đối với công đức của Đức vua An Dương Vương đã có công dựng nước Âu Lạc, xây thành, chế tạo nỏ Liên Châu chống giặc, giữ nước và trồng lúa nước phát triển kinh tế, đồng thời giáo dục thế hệ trẻ truyền thống yêu nước, luôn đề cao cảnh giác trước mọi âm mưu chống phá nền độc lập và xây dựng chủ nghĩa xã hội của các thế lực thù địch trong giai đoạn hiện nay.
BAN QUẢN LÝ KHU DI TÍCH CỔ LOA